Tranh chấp về việc phân chia tài sản là ruộng đất
27/04/2017 13:57
Tôi có câu hỏi mong được tư vấn: Năm 2000, Ông Ngoại tôi mất không để lại di chúc. Lúc sinh thời, Ông Ngoại đã phân chia tài sản là ruộng đất cho các Cậu, Dì
Riêng phần đất đai, nhà cửa, ông không phân chia vì tất cả các Cậu, Dì đều có gia đình riêng.
- Trong thời gian còn sống, vì lý do sức khỏe nên vào năm 1998, ngôi nhà đang ở và đất đai, ông để lại cho Mẹ tôi đứng tên vì Mẹ tôi sống cùng Ông tôi.
- Đến năm 2008, Mẹ tôi cũng đã qua đời. Khi Mẹ mất, chính quyền địa phượng làm hồ sơ thừa kế chuyển qua tên tôi thừa kế. Trong thời gian này, hồ sơ bị các Cậu, Dì ngăn lại vì cho rằng tôi không xứng đáng và thời gian Mẹ tôi đứng tên khi chuyển sở hữu từ Ông tôi sang Mẹ tôi cũng chưa tròn 10 năm theo luật định. Vụ tranh chấp này sau đó đi vào im lặng vì các bên không ai muốn đề cập và nhắc lại nữa, vì nó ảnh hưởng đến tình cảm và truyền thống gia đình.
-Vì vậy, đến năm 2011, tôi được Pháp luật công nhận thừa kế chính thức từ Mẹ tôi. Từ đó đến nay, tôi đã thực hiện đúng tâm nguyện lúc sinh thời của Ông và Mẹ tôi.
Năm 2015, các Cậu, Dì tiếp tục làm áp lực khi không công nhận tính pháp lý do tôi đứng tên và ngang nhiên sử dụng tùy tiện khuôn viên đất đai không đúng với thực trạng mà Ông tôi và Mẹ tôi trước đây quản lý, gây khó khăn rất nhiều cho tôi trong sinh hoạt và công việc. Ý các Cậu, Dì muốn phân chia lại tài sản này.
Theo tôi, việc này là không đúng vì lúc sinh thời, khi Ông tôi và Mẹ tôi còn sống, các Cậu, Dì hoàn toàn không có ý định đòi phân chia tài sản. Hiện tại, tôi được pháp luật công nhận thừa kế tài sản từ Mẹ tôi và tôi đang đứng chủ quyền này. Các Cậu, Dì tôi hành động như vậy có đúng không và tôi cần phải làm gì để chấp dứt tình trạng tranh chấp này?
Xin luật sư tư vấn giúp tôi vấn đề này?
Trân trọng!
Cám ơn bạn đã tin tưởng gửi thông tin xin tư vấn đến cho chúng tôi.
Về vấn đề bạn hỏi Công ty luật Bảo Chính, Đoàn luật sư Hà Nội tư vấn cho bạn như sau:
Căn cứ vào thông tin mà bạn cung cấp, ông ngoại bạn mất mà không để lại di chúc nhưng một phần tài sản đã được phân chia khi còn sống theo các hình thức khác không phải là thừa kế, do đó phần di sản được thừa kế theo pháp luật là ngôi nhà và đất ở. Việc phân chia thừa kế theo pháp luật được thực hiện theo quy định tại Điều 676 BLDS:
"Điều 676. Người thừa kế theo pháp luật
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản."
Như vậy, mẹ bạn và các cậu, các dì bạn là những người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông bạn (con đẻ của người chết). Do đó, họ đều đủ tư cách hưởng di sản thừa kế, và di sản thừa kế phải được chia đều cho những người thừa kế này. Tuy nhiên, tại thời điểm mở thừa kế (khi ông bạn mất), bạn cung cấp thông tin rằng mẹ bạn đã được hưởng thừa kế toàn bộ phần di sản này (theo hồ sơ thừa kế). Do đó, đây cũng là thỏa thuận của các đồng thừa kế về việc công nhận mẹ bạn là người thừa kế toàn bộ di sản ông bạn để lại theo quy định tại Điều 681 BLDS về thỏa thuận của những người thừa kế.
Tuy nhiên, thỏa thuận này vẫn có thể thay đổi trong trường hợp một trong các đồng thừa kế khởi kiện yêu cầu phân chia di sản theo quy định tại Điều 645 BLDS:
"Điều 645. Thời hiệu khởi kiện về thừa kế
Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.”
Do đó, nếu qua thời hạn 10 năm này thì mẹ bạn hoàn toàn có quyền đối với tài sản được thừa kế và có thể để lại tài sản này cho người khác.
Sau khi mẹ bạn qua đời năm 2008, cũng không để lại di chúc, do đó tài sản này cũng được phân chia theo quy định của pháp luật. Căn cứ vào quy định tại Điều 676 BLDS, bạn là người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của mẹ bạn (con đẻ của người chết); các dì, các cậu của bạn là người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ hai của mẹ bạn (anh chị em ruột của người chết). Dở đó, bạn là người được quyền thừa kế tài sản của mẹ bạn theo quy định tại khoản 3 Điều 676 BLDS. Đến năm 2011, thời hiệu khởi kiện về thừa kế đã hết đối với tài sản do ông bạn để lại đã hết , do đó, các cậu và các dì của bạn không thể tiếp tục yêu cầu phân chia thừa kế đối với phần di sản của ông bạn để lại cho mẹ bạn nữa.
Bạn là người được pháp luật công nhận là người thừa kế quyền sử dụng đất từ mẹ của bạn, do đó, bạn là người có quyền sử dụng đất. Mọi tài sản trên đất này là tài sản thuộc sở hữu của bạn. Việc bảo vệ quyền sử dụng đất được quy định tại Điều 261 BLDS:
"Điều 261. Bảo vệ quyền của người chiếm hữu mà không phải là chủ sở hữu
Các quyền được quy định tại các điều từ Điều 255 đến Điều 260 của Bộ luật này cũng thuộc về người tuy không phải là chủ sở hữu nhưng chiếm hữu tài sản trên cơ sở quyền sử dụng đất, quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề hoặc theo căn cứ khác do pháp luật quy định hoặc theo thoả thuận."
Theo thông tin mà bạn cung cấp, các Cậu, Dì của bạn tiếp tục gây áp lực khi không công nhận tính pháp lý do bạn đứng tên và ngang nhiên sử dụng tùy tiện khuôn viên đất đai không đúng với thực trạng mà ông và Mẹ bạn trước đây quản lý, gây khó khăn rất nhiều cho bạn trong sinh hoạt và công việc. Đây là hành vi "Cản trở, gây khó khăn đối với việc thực hiện quyền của người sử dụng đất theo quy định của pháp luật" theo quy định tại Điều 12 Luật Đất đai về những hành vi bị nghiêm cấm. Căn cứ theo quy định này, bạn là người có quyền sử dụng đất có quyền tự mình thực hiện các tự bảo vệ tài sản theo quy định của pháp luật hoặc yêu cầu sự can thiệp từ các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Bộ Luật Dân sự 2005 quy định:
"Điều 259. Quyền yêu cầu ngăn chặn hoặc chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp
Khi thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu của mình, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp luật phải chấm dứt hành vi đó; nếu không có sự chấm dứt tự nguyện thì có quyền yêu cầu Toà án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác buộc người đó chấm dứt hành vi vi phạm.
Điều 255. Các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu
Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu Toà án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền tự bảo vệ tài sản thuộc sở hữu của mình, tài sản đang chiếm hữu hợp pháp bằng những biện pháp theo quy định của pháp luật."
Như vậy, khi bạn đã có yêu cầu các dì và cậu của bạn chấm dứt các hành vi gây cản trở việc thực hiện quyền sử dụng đất của bạn mà họ không chịu chấm dứt mà vẫn tiếp tục gây áp lực và ngang nhiên sử dụng đất thuộc quyền sử dụng đất của bạn thì bạn hãy yêu cầu Tòa án giải quyết. Tòa án sẽ có các biện pháp buộc người có hành vi vi phạm phải chấm dứt hành vi đó.
Trên đây là nội dung trả lời của Công ty luật Bảo Chính cho trường hợp của bạn. Nếu còn vướng mắc bạn có thể tiếp tục gửi câu hỏi cho chúng tôi hoặc nghe luật sư tư vấn trực tiếp vui lòng gọi 19006281.
Trân trọng!
Gọi 1900 6281 để nghe luật sư tư vấn nhanh chóng, kịp thời, chính xác nhất các quy định của pháp luật hoặc đặt lịch tư vấn luật trực tiếp tại văn phòng Công ty luật Bảo Chính (P308, Tòa nhà số 8, Phố Láng Hạ, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội). Trường hợp quý khách có nhu cầu mời luật sư tham gia vụ án tranh chấp đất đai, thừa kế, hôn nhân gia đình, kinh tế, thương mại… xin vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi theo địa chỉ trên.