Tranh chấp tài sản thừa kế từ năm 2000
04/05/2017 17:44
Nhà tôi có 1 mảnh đất do ông bà để lại,ông bà tôi có 8 người con,gồm 3 trai và 5 gái,mảnh đất đó lâu nay chỉ có 3 người con trai ở, ba tôi là trai trưởng, sau khi thỏa thuận thì 1 chú đã chia đất ra riêng, còn 1 chú ba tôi đã mua lại mảnh đất đó(có đi công chứng).
Ông nội tôi mất sớm nên ba tôi nuôi dưỡng bà nội tôi cho đến lúc mất(bà nội tôi mất năm 2000),trước khi mất bà nội tôi có để lại di chúc không có công chứng,có chữ kí đầy đủ của các con trai và con gái ,nội dung là để lại cho ba tôi ở và thờ tự và tùy ý sử dụng mảnh đất phía sau nhà thờ,(nhà thờ nằm ngay chính giữa miếng đất,mảnh đất của 2 ông chủ nằm phía trước nhà thờ),không được mua bán,sau đó ba tôi mất năm 2014,tôi có đi làm giấy chứng nhận sở hữu đất nhưng chỉ là người đứng tên đại diện thuộc hàng thừa kế từ ông bà nội của tôi,đến đầu năm 2016 thì có 4 người con gái trong 5 con gái về đòi chia đất,(có 1 con gái đã có thẻ xanh ở Mỹ)tôi hỏi họ có quyền để chia không,nếu chia thì chia như thế nào,và làm thế nào để gia đình tôi sở hữu riêng mảnh đất đó,xin cảm ơn?
Cảm ơn bạn đã tin tưởng và lựa chọn Công ty luật Bảo Chính. Về thắc mắc của bạn, chúng tôi tư vấn giải đáp cho bạn như sau:
Theo như thông tin bạn cung cấp, mảnh đất có nguồn gốc là sở hữu chung của ông bà để lại. Do vậy chúng ra có thể xác định vào thời điểm ông bà chưa mất, quyền định đoạt mảnh đất vẫn thuộc về ông bà. Trong vấn đề bạn có đề cập đến việc ba người con trai thỏa thuận sử dụng mảnh đất nhưng không nói rõ việc thỏa thuận này được tiến hành trên cơ sở nào? Trong trường hợp việc thỏa thuận sử dụng được ông bà cho phép đồng ý, đã thực hiện những thủ tục liên quan như tặng cho đất cho ba người còn đúng theo quy định của pháp luật có nghĩa là sau thời điểm ông bà tặng cho và hoàn tất thủ tục, người nhận tặng cho là người nhận được phép đứng tên trên phần đất thuộc phần được tặng cho của mình và xác lập quyền sử dụng đất của họ trên mảnh đất đó. Bạn cũng đề cập đến việc sau thỏa thuận 1 chú đã chia đất ra riêng, còn ba của bạn đã tiến hành giao dịch mua bán (có công chứng) mảnh đất của một người chú còn lại.
Như vậy, vấn đề quan trọng ở đây là bạn phải xác định được ai là người đứng tên sử dụng đất trên những thửa đất được đề cập tới, người đó sẽ là người có quyền quyết định với mảnh đất thuộc quyền sử dụng của mình.
Theo như bạn mô tả về thửa đất thì trong trường hợp có xác lập cụ thể quyền sử dụng của ba người con trai trên thửa đất nào hai không thì vẫn còn một phần mảnh đất ban đầu thuộc sở hữu chung của ông bà nội khi thỏa thuận đã tiến hành tặng cho quyền sử dụng một phần mảnh đất cho 3 người con trai, ba của bạn đã mua lại mảnh đất của một người chú.
Như vậy, sau khi ông nội mất mà không để lại di chúc thì bà nội chỉ có quyền định đoạt mảnh đất thuộc sở hữu của mình. Nếu mảnh đất bà đề cập đến trong di chúc thuộc phần định đoạt của bà thì vấn đề hợp pháp đối với di chúc bà để lại được xác định như sau.
Theo quy định tại Điều 652 Bộ luật Dân sự 2005:
Điều 652. Di chúc hợp pháp
1. Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép;
b) Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật.
2. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.
4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.
5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng hoặc chứng thực.
Nếu bà nội của bạn vào thời điểm lập di chúc thỏa mãn những điều kiện ở trên và di chúc được thể hiện bằng một trong những hình thức văn bản được quy định tại Điều 650 Bộ luật Dân sự 2005:
Điều 650. Di chúc bằng văn bản
Di chúc bằng văn bản bao gồm:
1. Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng;
2. Di chúc bằng văn bản có người làm chứng;
3. Di chúc bằng văn bản có công chứng;
4. Di chúc bằng văn bản có chứng thực.
Trước khi mất bà nội có để lại di chúc không có công chứng, có chữ kí đầy đủ của các con trai và con gái và có các điều kiện như sau thì được coi là hợp pháp:
- Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép;
- Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật.
thì được coi là hợp pháp.
- Người lập di chúc phải tự tay viết và ký vào bản di chúc (trong trường hợp không có người làm chứng).
- Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc (trường hợp có ít nhất người làm chứng).
Như vậy nếu nội dung của di chúc bà nội để lại quyết định cho phép ba của bạn liên quan đến vấn đề thờ cúng được thực hiện như sau theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005:
Điều 670. Di sản dùng vào việc thờ cúng
1. Trong trường hợp người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho một người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thoả thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.
Trong trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì những người thừa kế cử một người quản lý di sản thờ cúng.
Trong trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.
2. Trong trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng.
Như vậy trong trường hợp này nếu các con của ông bà không đồng ý với việc chia di sản thừa kế thì họ có quyền yêu cầu khởi kiện, tuy vậy, thời điểm bà của bạn mất là năm 2000, tới nay đã là năm 2016, theo như quy định tại Bộ Luật Dân sự về thời hiệu khởi kiện thời kế:
Điều 645. Thời hiệu khởi kiện về thừa kế
Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Theo hướng dẫn của Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP sẽ có hai trường hợp xảy ra như sau:
- Trường hợp thứ nhất, nếu các đồng thừa kế gửi đơn khởi kiện đến tòa án mà nội dung khởi kiện là khởi kiện về thừa kế (như chia di sản thừa kế, xác định quyền thừa kế …) thì Tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện do đã hết thời hiệu khởi kiện.
- Trường hợp thứ hai, nếu các đồng thừa kế gửi đơn khởi kiện đến tòa án nhưng nội dung khởi kiện là yêu cầu giải quyết việc chia tài sản chung của các đồng thừa kế thì tòa án sẽ thụ lý đơn; trong trường hợp này, tòa án sẽ áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết.
Trong trường hợp này các con người con của ông bà có thể khởi kiện với nội dung chia tài sản chung là mảnh đất thuộc sở hữu chung của ông bà nội để lại. Theo bộ luật Dân sự 2005 quy định thì con ruột thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người đã mất nên nguyên tắc chia sẽ phụ thuộc vào nội dung của di chúc hợp pháp bà nội để lại, phần không được đề cập trong di chúc áp dụng nguyên tắc người cùng hàng thừa kế được hưởng phần di sản bằng nhau.
Điều 676. Người thừa kế theo pháp luật
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Trên đây là nội dung trả lời của Công ty luật Bảo Chính cho trường hợp của bạn. Nếu còn vướng mắc bạn có thể tiếp tục gửi câu hỏi cho chúng tôi hoặc nghe luật sư tư vấn trực tiếp vui lòng gọi 19006281.
Trân trọng!
Gọi 1900 6281 để nghe luật sư tư vấn nhanh chóng, kịp thời, chính xác nhất các quy định của pháp luật hoặc đặt lịch tư vấn luật trực tiếp tại văn phòng Công ty luật Bảo Chính (P308, Tòa nhà số 8, Phố Láng Hạ, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội). Trường hợp quý khách có nhu cầu mời luật sư tham gia vụ án tranh chấp đất đai, thừa kế, hôn nhân gia đình, kinh tế, thương mại… xin vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi theo địa chỉ trên.