Người được tặng cho không thực hiện nghĩa vụ
13/04/2017 09:04
Bố mẹ đã già gần 90 tuổi, có nhiều con cái nhưng ở với con trai trưởng. Khi đó, bố mẹ đã trao lại quyền sử dụng đất cho người con trai trưởng, đã sang tên trong sổ đỏ. Nhưng sau đó người con đã không cho bố mẹ ở lại nhà để phụng dưỡng nữa mà đuổi bố mẹ sang nhà con trai thứ ở.
Vậy xin hỏi, trước việc làm của người con trai trưởng, pháp luật có tước quyền sử dụng đất của người đó và trả lại cho bố mẹ không?
Công ty luật Bảo Chính, Đoàn luật sư Hà Nội cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi thông tin tư vấn.
Về nội dung bạn đang thắc mắc, Công ty luật Bảo Chính trả lời như sau:
Theo quy định của pháp luật hiện hành, khi hợp đồng chuyển nhượng/tặng cho quyền sử dụng đất giữa các bên đã có hiệu lực, bên nhận chuyển nhượng/nhận tặng cho đã hoàn thành thủ tục đăng ký sang tên theo quy định (được đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) thì bên chuyển nhượng/tặng cho không có quyền đòi lại quyền sử dụng mảnh đất đó, trừ các trường hợp sau đây:
1. Trường hợp thứ nhất: Bố mẹ chứng minh được hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất cho người con trai trưởng là hợp đồng vô hiệu.
* Các trường hợp giao dịch vô hiệu:
- Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 117 của Bộ luật Dân sự thì vô hiệu (Điều 122 Bộ luật Dân sự):
“1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;
b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định.”
- Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội;
- Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo;
- Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện;
- Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn;
- Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa;
- Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình;
- Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức;
Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu được quy định tại Điều 131 Bộ luật Dân sự 2015:
“1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.
2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.
Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.
3. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó.
4. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.
5. Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định.”
Như vậy, nếu chứng minh được hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất từ bố mẹ sang người con trai trưởng thuộc một trong các trường hợp nêu trên thì bố mẹ có quyền yêu cầu Tòa án tuyên hợp đồng vô hiệu. Nếu hợp đồng vô hiệu, người con trai trưởng phải trả lại bố mẹ quyền sử dụng đất đã nhận.
2. Trường hợp thứ hai
Nếu khi chuyển quyền sử dụng đất sang cho con trai trưởng, bố mẹ đã lập hợp đồng tặng cho và thỏa mãn hai yếu tố:
(i) hợp đồng tặng cho này là hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện;
(ii) điều kiện tặng cho có thể là: người con trai trưởng có nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc bố mẹ khi về già hoặc điều kiện khác không được trái pháp luật, đạo đức xã hội...
Trong trường hợp này, có thể áp dụng quy định tại Điều 462 Bộ luật Dân sự 2015 về tặng cho tài sản có điều kiện như sau:
“1. Bên tặng cho có thể yêu cầu bên được tặng cho thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ trước hoặc sau khi tặng cho. Điều kiện tặng cho không được vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
2. Trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ trước khi tặng cho, nếu bên được tặng cho đã hoàn thành nghĩa vụ mà bên tặng cho không giao tài sản thì bên tặng cho phải thanh toán nghĩa vụ mà bên được tặng cho đã thực hiện.
3. Trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ sau khi tặng cho mà bên được tặng cho không thực hiện thì bên tặng cho có quyền đòi lại tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại.”
Theo quy định trên, nếu bố mẹ và người con trai trưởng đã lập hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất có điều kiện như trên thì khi người con trai trưởng vi phạm điều kiện tặng cho (như: vi phạm nghĩa vụ chăm sóc nuôi dưỡng bố mẹ), bố mẹ có quyền đòi lại tài sản đã tặng cho.
Trên đây là nội dung tư vấn của Công ty luật Bảo Chính cho câu hỏi của bạn.
Nếu còn vướng mắc, bạn có thể tiếp tục thông tin cho chúng tôi để nhân được giải đáp, hoặc nghe luật sư tư vấn, vui lòng gọi 19006281.
Chúc bạn thành công!
Công ty luật Bảo Chính.
Gọi 19006281 để nghe luật sư tư vấn nhanh chóng, kịp thời, chính xác nhất các quy định của pháp luật hoặc đặt lịch tư vấn trực tiếp tại văn phòng Công ty luật Bảo Chính (P308, Tòa nhà số 8, phố Láng Hạ, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội). Trường hợp quý khách có nhu cầu mời luật sư tham gia các vụ án tranh chấp đất đai, thừa kế, hôn nhân gia đình, thương mại, kinh tế… vui lòng liên hệ với chúng tôi theo địa chỉ trên.