Hỏi về tội cướp tài sản
04/04/2017 14:37C có hành vi dùng vũ lực chiếm đoạt tài sản của K, tài sản chiếm đoạt có giá trị 30 triệu đồng. Hành vi phạm tội của C được quy định tại khoản 1 Điều 133 BLHS. C bị đưa ra xét xử và bị tuyên phạt 7 năm tù. Nếu C mới dùng vũ lực nhưng không chiếm đoạt được tài sản thì C có bị truy cứu TNHS về tội cướp tài sản không? Giai đoạn thực hiện tội phạm? Nếu C mới chuẩn bị phạm tội cướp tài sản thì bị bắt giữ thì C có phải chịu TNHS về hành vi của mình không? Tại sao?
Về nội dung bạn đang thắc mắc, Công ty luật Bảo Chính trả lời như sau:
- C vẫn bị truy cứu trách nghiệm hình sự, hành vi tội phạm của C thuộc giai đoạn tội phạm hoàn thành.
Theo như kết luận ở phần 2 cấu thành tội phạm của tội cướp tài sản (qui định tại khoản 1 điều 133) là cấu thành hình thức (tội phạm có cấu thành tội phạm trong tội này chỉ mô tả hành vi, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc)
“Tội phạm hoàn thành là trường hợp hành vi phạm tội đã thỏa mãn hết các dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm.”
Với quan niệm về tội phạm hoàn thành như vậy, luật hình sự Việt Nam khẳng định: Thời điểm tội phạm hoàn thành không phụ thuộc và việc người phạm tội đã đạt được mục đích của mình hay chưa. Nói tội phạm hoàn thành là hoàn thành về mặt pháp lí – tức tội phạm đã thỏa mãn hết các dấu hiệu của cấu thành tội phạm.
Trong tội cướp tài sản ( Điều 133) người phạm tội chỉ cần thực hiện các hành vi mô tả trong cấu thành tội phạm (dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được…) thì coi như tội phạm đã hoàn thành mà không cần xem xét hậu quả đã xảy ra chưa (không cần biết rằng người phạm tội đã chiếm được tài sản hay chưa).
Trong vụ án trên : “C có hành vi dùng vũ lực chiếm đoạt tài sản của K” . Hành vi “dùng vũ lực chiếm đoạt tài sản” đã thỏa mãn dấu hiệu hành vi khách quan mô tả trong cấu thành của tội cướp tài sản. Nên theo lập luận trên, hành vi phạm tội của C đã hoàn thành và C phải chịu trách nghiệm hình sự về tội cướp tài sản mà không cần quan tâm đến mà không cần quan tâm đến việc C có cướp được tài sản hay không ( thực tế C đã chiếm được tài sản có giá trị 30 triệu đồng).
Cần lưu ý rằng tài sản bị chiếm đoạt trong tội cướp tài sản không phải là dấu hiệu định tội mà chỉ là dấu hiệu định khung hình phạt (căn cứ vào giá trị của tài sản bị cướp để xác định người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản nào của Điều 133 BLHS ).
Như vậy tội phạm cướp đoạt tài sản được coi là hoàn thành từ thời điểm thực hiện hành vi cướp đoạt tài sản được mô tả trong điều 133 của BLHS.
C đương nhiên phải chịu trách nghiệm hình sự về tội này dù C mới dùng vũ lực nhưng không chiếm đoạt được tài sản. Vì hành vi của C đã thỏa mãn cấu thành tội phạm (CTTP là cơ sở pháp lí của trách nhiệm hình sự) của tội cướp tài sản, thuộc giai đoạn tội phạm hoàn thành. Tức C đã phạm tội cướp tài sản theo điều 133 BLHS. Và theo điều 2 BLHS thì ‘ chỉ người nào phạm một tội đã được BLHS qui định mới phải chịu TNHS’.
Kết luận, nếu C mới dùng vũ lực nhưng không chiếm đoạt được tài sản thì C vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản theo điều 133 BLHS. Và hành vi tội phạm của C thuộc giai đoạn tội phạm hoàn thành.
- C phải chịu TNHS về hành vi của mình
“Chuẩn bị phạm tội là giai đoạn trong đó người phạm tội có hành vi tạo ra những hành vi tạo ra những điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm nhưng chưa bắt đầu thực hiện tội phạm đó"
Tất cả những hành vi chuẩn bị phạm tội đều chưa trực tiếp làm biến đổi tình trạng của đối tượng tác động của tội phạm để gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội là khách thể của tội định thực hiện.
Trong Luật hình sự Việt Nam, không phải hành vi chuẩn bị phạm tội nào cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Người chuẩn bị phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự nếu tội định phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
“Điều 17. Chuẩn bị phạm tội
Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm.
Người chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc một tội đặc biệt nghiêm trọng, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội định thực hiện.”
Theo kết luận ở phần 1 thì tội phạm mà C thực hiện thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng (khoản 1 điều 133 BLHS). Và theo đề bài khi C mới chuẩn bị phạm tội thì bị bắt giữ, từ đó có thể thấy việc không thực hiện được tội phạm là không theo ý muốn chủ quan của C. Như vậy, C phải chịu TNHS về hành vi của mình về tội cướp tài sản nhưng thuộc trường hợp chuẩn bị phạm tội. Khi quyết định hình phạt đối với trường hợp này thì cần lưu ý quy định tại khoản 1, 2 điều 52 BLHS:
"1. Đối với hành vi chuẩn bị phạm tội và hành vi phạm tội chưa đạt, hình phạt đựơc quyết định theo các điều của Bộ luật này về các tội phạm tương ứng tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, mức độ thực hiện ý định phạm tội và những tình tiết khác khiến cho tội phạm không thực hiện được đến cùng.
2. Đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng là không quá hai mươi năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định.”
Lưu ý: Nếu hành vi chuẩn bị phạm tội của C đã cấu thành 1 tội phạm độc lập khác thì C phải chịu TNHS về tội độc lập đó ( ví dụ hành vi chuẩn bị công cụ phương tiện để thực hiện hành vi cướp tài sản ví dụ như súng, dao kiếm,...thì người đó sẽ phải chịu TNHS về tội tàng trữ trái phép vũ khí)
Nói chung, nếu C mới chuẩn bị phạm tội cướp tài sản thì bị bắt giữ thì C vẫn phải chịu TNHS về hành vi của mình.
Trên đây là nội dung tư vấn của Công ty luật Bảo Chính về nội dung bạn đang thắc mắc. Nếu còn điều gì chưa rõ, bạn có thể tiếp tục thông tin cho chúng tôi để được giải đáp, hoặc nghe luật sư tư vấn, vui lòng gọi 19006281.
Chúc bạn thành công!
Công ty luật Bảo Chính.
Gọi 19006281 để nghe luật sư tư vấn nhanh chóng, kịp thời, chính xác nhất các quy định của pháp luật hoặc đặt lịch tư vấn trực tiếp tại văn phòng Công ty luật Bảo Chính (P308, Tòa nhà số 8, phố Láng Hạ, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội). Trường hợp quý khách có nhu cầu mời luật sư bào chữa, luật sư tham gia các vụ án hình sự, vui lòng liên hệ với chúng tôi theo địa chỉ trên.