Có được miễn trách nhiệm hình sự khi có đơn bãi nại của gia đình người bị hại?
12/04/2017 09:31
Xin chào các anh chị !
Em có thằng em nó chưa đủ 18 tuổi. Trong khi nó điều khiển phương tiện giao thông không có bia rượu, các chất kích thích khác nó quệt phải một bác đẩy xe rác, lúc đầu đi viện thì bác sỹ bảo không làm sao và cho về nhưng sang đến ngày hôm sau thì bác ý chết .
Vậy em muốn hỏi các anh chị xem nếu như trường hợp của em em nếu như có đơn bãi nại thì có được miễn truy tố trách nhiệm hình sự không ạ? Mà nếu có đi tù thì đi bao nhiêu năm ạ và đơn bãi nại của gia đình bác A có hiệu lực không ạ. Em xin chân thành cảm ơn ạ!
Theo thông tin bạn cung cấp thì em trai bạn chưa đủ 18 tuổi, bạn không nói rõ số tuổi cụ thể nên khi xác định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì theo Điều 12 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 có quy định:
"1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.”
Thêm nữa, vì chị cũng không nói rõ là bác kia chết là do nguyên nhân bị em chị đâm hay chết vì một nguyên nhân nào đó, thì có hai trường hợp xảy ra trong tình huống này:
– Bác A chết vì nguyên nhân bị em chị đâm, lúc đầu đi viện thì bác sĩ bảo không làm sao và cho về, nhưng sang đến ngày hôm sau thì bác ấy chết, có thể do lúc đầu do vết thương ẩn như chảy máu não… mà bác sĩ chỉ kiểm tra thương tích bên ngoài thì không thể phát hiện ra được, đến hôm sau vết thương phát tác gây hậu quả chết người. Trong trường hợp này thì em bạn hoàn toàn phải chịu trách nhiệm về cái chết của bác ấy.
– Bác ấy chết không phải vì nguyên nhân bị em chị đâm, có thể vì một bệnh tiền sử nào đó của bác hoặc bác bị chết đột ngột do trúng gió hay cảm mạo…không liên quan gì đến việc bị em bạn đâm hôm trước, kết quả kiểm tra của bác sĩ hoàn toàn chính xác.
Điều 202 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 có quy định về Tội vi phạm quy định về điều khiển giao thông đường bộ như sau:
"1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:
a) Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định;
b) Trong khi say rượu hoặc say do dùng các chất kích thích mạnh khác;
c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;
d) Không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông;
đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.
4. Vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ mà có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.
5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.”
Theo đó, em bạn sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự trong những trường hợp sau:
– Nếu em bạn từ đủ 16 tuổi trở lên thì sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, vì vậy, trong trường hợp bác A bị chết do hành vi vi phạm quy định về điều khiển về giao thông đường bộ của em bạn quy định tại Điều 202 Bộ luật dân sự thì em bạn sẽ bị truy cứu theo Điểm a Khoản 2 Điều này vì em bạn dưới 18 tuổi nên sẽ không thể có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định của pháp luật. Mức hình phạt trong trường hợp này là từ 3 năm đến 10 năm tù.
– Nếu em bạn từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, theo đó, bác A chết do hành vi của em bạn gây ra xác định theo Khoản 2 Điều 202 như trên thì thuộc tội phạm rất nghiêm trọng (xác định theo Khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự), nếu em bạn có lỗi vô ý khi gây tai nạn cho bác A thì sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điều khoản trên, còn nếu cố ý thì xác định theo trường hợp thứ nhất đã nêu ở trên.
Trong trường hợp bác A chết hoàn toàn không phải do lỗi của em bạn thì em bạn sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay bồi thường gì cả, nếu có căn cứ chứng minh điều này.
Về vấn đề đơn bãi nại của gia đình bác A:
Bãi nại được hiểu là bãi bỏ việc khiếu nại. Đơn bãi nại là đơn rút yêu cầu khởi kiện. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật hình sự thì không phải mọi trường hợp có đơn bãi nại của người bị hại thì đều không phải chịu trách nhiệm hình sự mà chỉ có một số tội danh quy định tại điều 155 Bộ Luật Tố tụng Hình sự năm 2015 như sau:
"1. Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.
2. Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.
3. Bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.”
Với những căn cứ trên, thì trong trường hợp của em bạn dù bên thân nhân người bị hại đã ký đơn bãi nại nhưng người có hành vi vi phạm pháp luật vẫn có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình.
Tuy nhiên, trong trường hợp của em chị nếu vô ý gây ra tai nạn trong khi dưới 16 tuổi thì sẽ không bị truy tố trách nhiệm hình sự, theo đó, gia đình bạn sẽ phải tiến hành bồi thường cho gia đình bác A nếu bác A chết thực sự là do em bạn va chạm theo quy định của Bộ luật dân sự về nghĩa vụ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (Điều 623 Bộ luật dân sự) được hướng dẫn tại Nghị quyết số 03/2006/NQ – HĐTP Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Trên đây là nội dung trả lời của Công ty luật Bảo Chính cho trường hợp bạn hỏi. Nếu còn vướng mắc bạn vui lòng gọi 19006281 để nghe luật sư tư vấn chi tiết chính xác nhất.
Trân trọng!
Gọi 1900 6281 để nghe luật sư tư vấn nhanh chóng, kịp thời, chính xác nhất các quy định của pháp luật hoặc đặt lịch tư vấn luật trực tiếp tại văn phòng Công ty luật Bảo Chính (P308, Tòa nhà số 8, Phố Láng Hạ, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội). Trường hợp quý khách có nhu cầu mời luật sư bào chữa, luật sư tham gia vụ án hình sự xin vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi theo địa chỉ trên.