Chung sống như vợ chồng với người khác khi người đó đang có vợ thì phạm tội gì?
05/01/2017 16:30Do vợ không sinh được con trai nên anh Tư đã đi cặp bồ với chị Hồng và hai người đã sinh một con trai. Kể từ khi chị Hồng sinh con, anh Tư đã thuê một căn hộ và đến chung sống với chị Hồng công khai như vợ chồng không có nghĩa vụ gì đến việc chăm lo vợ và hai con gái. Hơn thế, anh Tư thường xuyên về chửi bới, hắt hủi vợ con. Biết được việc làm sai trái của anh Tư, nhiều lần Chi Hội phụ nữ nơi anh Tư thường trú đã đến khuyên bảo, góp ý nhưng anh Tư không nghe mà còn chửi bới, đe dọa các chị em của Chi Hội. Vừa qua, UBND xã nơi anh Tư thường trú đã ra quyết định xử phạt hành chính anh Tư về hành vi chung sống như vợ chồng với chị Hồng. Tuy nhiên, anh Tư và chị Hồng vẫn tiếp tục chung sống như vợ chồng. Đề nghị cho biết anh hành vi chung sống như vợ chồng với chị Hồng của anh Tư thì phạm tội gì?
-
Tại Điều 147 của Bộ Luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định về “Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng”, như sau:
1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm.
2. Phạm tội trong trường hợp đã có quyết định của Toà án tiêu huỷ việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
Theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC hướng dẫn áp dụng Chương XV "Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình" của Bộ luật hình sự do Bộ Tư pháp - Bộ Công an - Tòa án nhân dân tối cao - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (viết gọn lại là Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC) ban hành, thì hành vi “chung sống như vợ chồng”: là việc người đang có vợ, có chồng chung sống với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà lại chung sống với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ một cách công khai hoặc không công khai nhưng cùng sinh hoạt chung như một gia đình. Việc chung sống như vợ chồng thường được chứng minh bằng việc có con chung, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng, có tài sản chung đã được gia đình cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó...
Cũng theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC, thì chỉ có thể truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này khi thuộc một trong các trường hợp:
- Hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng gây hậu quả nghiêm trọng, như làm cho gia đình của một hoặc cả hai bên tan vỡ dẫn đến ly hôn, vợ hoặc chồng, con vì thế mà tự sát, v.v...
- Người vi phạm chế độ một vợ, một chồng đã bị xử phạt hành chính về một trong những hành vi được liệt kê trong Điều 147 BLHS, nhưng chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử phạt hành chính (theo quy định tại Điều 7 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 về thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính, nếu trong thời hạn 06 tháng, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt cảnh cáo hoặc 01 năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt hành chính khác hoặc từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính mà không tái phạm thì được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính), mà lại thực hiện chính hành vi đó, hoặc thực hiện một trong những hành vi được liệt kê trong điều luật.
Trong trường hợp đã có quyết định của Tòa án tiêu huỷ việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng theo khoản 2 Điều 147 BLHS. Trường hợp vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội của mình khi đã có quyết định của Tòa án tiêu hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái pháp luật thì người phạm tội có thể bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm (khoản 2).
Như vậy, căn cứ vào các quy định trên thì hành vi của anh Tư chung sống như vợ chồng với chị H đã đủ yếu tố cấu thành tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng được quy định tại khoản 1 Điều 147 Bộ Luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) với mức hình phạt là phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm”.
Trên đây là nội dung trả lời của Công ty luật Bảo Chính, Đoàn luật sư Hà Nội cho trường hợp bạn hỏi. Nếu bạn còn vướng mắc thì có thể gọi 1900 6281 để được luật sư tư vấn cụ thể, chi tiết hơn.
Trân trọng!
Gọi 1900 6281 để nghe luật sư tư vấn nhanh chóng, kịp thời, chính xác nhất các quy định của pháp luật hoặc đặt lịch tư vấn luật trực tiếp tại văn phòng Công ty luật Bảo Chính (P308, Tòa nhà số 8, Phố Láng Hạ, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội). Trường hợp quý khách có nhu cầu mời luật sư bào chữa, luật sư tham gia vụ án hình sự xin vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi theo địa chỉ trên.