Bị cáo chết trong giai đoạn xét xử phúc thẩm thì sẽ xử lý như thế nào?
05/07/2017 13:47
Bị cáo chết trong giai đoạn xét xử phúc thẩm thì xử lý như thế nào?
A bị Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt tù và buộc phải bồi thường cho người bị hại về tội cố ý gây thương tích theo khoản 1 Điều 104 BLHS. A kháng cáo trong thời hạn luật định đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm giảm hình phạt cho mình.
1. Tại phiên tòa, A bổ sung kháng cáo yêu cầu tăng mức bồi thường thiệt hại. Tòa án giải quyết như thế nào?
2. Giả sử tại phiên tòa A rút toàn bộ kháng cáo. Tòa án giải quyết như thế nào?
3. Giả sử Hội đồng xét xử phúc thẩm xác định trong hồ sơ vụ án không thể hiện yêu cầu khởi tố của người bị hại. Tòa án giải quyết như thế nào?
4. Giả sử trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, A chết vì tai nạn giao thông và Hội đồng xét xử xác định việc Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố A phạm tội là không đúng. Tòa án giải quyết như thế nào?
Xin cảm ơn.
Công ty Luật Bảo Chính, Đoàn luật sư Hà Nội tư vấn cho bạn như sau:
Tòa án không chấp nhận vì làm xấu đi tình trạng của bị cáo. Theo quy định tại Điều 238 BLTTHS:
“1. Trước khi bắt đầu hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo hoặc Viện kiểm sát có quyền bổ sung, thay đổi kháng cáo, kháng nghị nhưng không được làm xấu hơn tình trạng của bị cáo; rút một phần hoặc toàn bộ kháng cáo, kháng nghị.
2. Trong trường hợp rút toàn bộ kháng cáo, kháng nghị tại phiên tòa thì việc xét xử phúc thẩm phải được đình chỉ. Bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Toà án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm.”
2. Tại phiên tòa phúc thẩm, A rút toàn bộ kháng cáo thì Hội đồng xét xử ra quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm (theo quy định tại khoản 2 Điều 238 BLTTHS).
3. Khi xác định trong hồ sơ vụ án không thể hiện yêu cầu khởi tố của người bị hại, Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại.
Theo quy định tại Điều 250 BLTTHS:
“1. Toà án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại khi nhận thấy việc điều tra ởcấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được.
2. Toà án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại ởcấp sơ thẩm với thành phần Hội đồng xét xử mới trong những trường hợp sau đây:
a) Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng luật định hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng;
b) Người được Toà án cấp sơ thẩm tuyên bố không có tội nhưng có căn cứ cho rằng người đó đã phạm tội.
3. Khi hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại, Toà án cấp phúc thẩm phải ghi rõ lý do của việc hủy bản án sơ thẩm.
4. Khi huỷ bản án sơ thẩm để xét xử lại, Toà án cấp phúc thẩm không quyết định trước những chứng cứ mà Toà án cấp sơ thẩm cần phải chấp nhận hoặc cần phải bác bỏ, cũng như không quyết định trước về điều khoản Bộ luật hình sự và hình phạt mà Toà án cấp sơ thẩm sẽ phải áp dụng.
5. Trong trường hợp hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại mà thời hạn tạm giam đối với bị cáo đã hết và xét thấy việc tiếp tục tạm giam bị cáo là cần thiết, thì Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định tiếp tục tạm giam bị cáo cho đến khi Viện kiểm sát hoặc Toà án cấp sơ thẩm thụ lý lại vụ án.
Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày hủy bản án sơ thẩm, hồ sơ vụ án phải được chuyển cho Viện kiểm sát hoặc Toà án cấp sơ thẩm để giải quyết theo thủ tục chung.”
4. Trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, A chết vì tai nạn giao thông và xác định việc Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố A phạm tội là không đúng vì Hội đồng xét xử ra quyết định hủy quyết định của bản án sơ thẩm về phần hình sự, tuyên bố bị cáo không phạm tội và đình chỉ vụ án.
- Theo quy định tại Điều 251 BLTTHS: Khi có một trong những căn cứ quy định tại điểm 1 và điểm 2 Điều 107 của Bộ luật này thì Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm, tuyên bố bị cáo không có tội và đình chỉ vụ án; nếu có một trong những căn cứ quy định tại các điểm 3, 4, 5, 6 và 7 Điều 107 của Bộ luật này thì hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án.
- Theo quy định tại Điều 107 BLTTHS: “Không được khởi tố vụ án hình sự khi có một trong những căn cứ sau đây:
1. Không có sự việc phạm tội;
2. Hành vi không cấu thành tội phạm;
3. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự;
4. Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật;
5. Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự;
6. Tội phạm đã được đại xá;
7. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác.”
Trên đây là nội dung tư vấn của Công ty luật Bảo Chính cho câu hỏi “Bị cáo chết trong giai đoạn xét xử phúc thẩm thì xử lý như thế nào?”, nếu còn vướng mắc bạn có thể tiếp tục hỏi hoặc gọi 19006281 để nghe luật sư tư vấn.
Trân trọng!”