Bồi thường khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật
24/11/2016 10:09Luật sư cho tôi hỏi, tôi ký Hợp đồng lao động tháng 9/2015, Hợp đồng lao động có xác định thời hạn là 2 năm. Tháng 11/2016 công ty có quyết định đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động trái pháp luật với tôi. Nếu bây giờ tôi khởi kiện, thì tiền lương những ngày không được làm việc tính từ thời điểm tôi bị buộc nghỉ việc tới tháng 9/2017, hay tính từ thời điểm tôi bị buộc nghỉ việc tới ngày tòa án xét xử có bản án. Xin cám ơn Luật sư! Hồ Văn Quỳnh - Liên Chiểu, Đà Nẵng.
Về nguyên tắc người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng trước thời hạn nhưng việc đơn phương đó chỉ được coi là hợp pháp khi đơn phương chấm dứt trong các trường hợp được quy định tại Khoản 1, Điều 38, Bộ luật Lao động năm 2012 gồm:
a) Người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động;
b) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 12 tháng liên tục đối với người làm theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, đã điều trị 06 tháng liên tục, đối với người lao động làm theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và quá nửa thời hạn hợp đồng lao động đối với người làm theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa hồi phục.
Khi sức khỏe của người lao động bình phục, thì người lao động được xem xét để tiếp tục giao kết hợp đồng lao động;
c) Do thiên tai, hỏa hoạn hoặc những lý do bất khả kháng khác theo quy định của pháp luật, mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc;
d) Người lao động không có mặt tại nơi làm việc sau thời hạn quy định tại Điều 33 của Bộ luật này.
Như thông tin bạn cung cấp thì công ty nơi bạn làm việc đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật, do đó công ty thì sẽ chịu những hậu quả pháp lý theo quy định tại Điều 42, Bộ luật Lao động năm 2012 gồm:
1. Phải nhận người lao động trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã giao kết và phải trả tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong những ngày người lao động không được làm việc cộng với ít nhất 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.
2. Trường hợp người lao động không muốn tiếp tục làm việc, thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này người sử dụng lao động phải trả trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật này.
3. Trường hợp người sử dụng lao động không muốn nhận lại người lao động và người lao động đồng ý, thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này và trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật này, hai bên thỏa thuận khoản tiền bồi thường thêm nhưng ít nhất phải bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động để chấm dứt hợp đồng lao động.
4. Trường hợp không còn vị trí, công việc đã giao kết trong hợp đồng lao động mà người lao động vẫn muốn làm việc thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này, hai bên thương lượng để sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động.
5. Trường hợp vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho người lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước.
Trên đây là nội dung tư vấn của Công ty luật Bảo Chính cho trường hợp bạn Quỳnh hỏi.
Trân trọng!
Gọi 1900 6281 để nghe luật sư tư vấn nhanh chóng, kịp thời, chính xác nhất các quy định của pháp luật hoặc đặt lịch tư vấn luật trực tiếp tại văn phòng Công ty luật Bảo Chính (P308, Tòa nhà số 8, Phố Láng Hạ, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội). Trường hợp quý khách có nhu cầu mời luật sư tham gia vụ án tranh chấp đất đai, thừa kế, hôn nhân gia đình, kinh tế, thương mại… xin vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi theo địa chỉ trên.