Thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp trong trường hợp nào?
07/04/2017 20:13
Xin chào luật sư:
Bà nội em có mảnh đất ở quê. Trước khi cho bà A ở thì Nội em có cho một gia đình bà con ở nhờ sau đó họ trả lại. Cách đây khoảng 40 năm. Nội em lại cho bà A (cũng bà con) ở nhờ trên đất của Nội. Từ đó cho đến nay cũng hơn 40 năm. Mảnh đất đó Nội em có giấy tờ mua bán hồi xưa gọi là trích lục. Lúc trước em không nhớ rõ năm nào nhưng vào khoảng năm 1985 có đoàn 399 về xã thì bà A có làm đơn đăng ký ruộng đất khi nghe tin Ba em có làm đơn xác nhận đất đó của Nội em. Trong thời gian đó tình cảm bà con vẫn bình thường Ba em cũng chủ quan không đi làm sổ đỏ, cho đến khoảng năm 2006 bà A ở nhà tranh của nội em cũ đã hư hỏng nên đến xin Ba em cho xây nhà và hứa sẽ trả tiền đất lại cho Ba em. Nhưng khi xây nhà xong 1, 2 năm là trở mặt tiền cũng không trả mà còn thách thức Ba em. Trước tình hình đó Ba em đi làm sổ đỏ và được cấp vào năm 2009. Khi biết nhà em có sổ đỏ thì năm 2015 bà A làm đơn xin thu hồi sổ vì cấp sai. Sau thời gian làm việc của UBND xã và huyện thì có ra quyết định thu hồi nhưng Ba em làm đơn khiếu nại và hiện tại vẫn chưa thu hồi.
Trong thời gian đó Ba em có thu thập được đơn đăng ký ruộng đất của bà A nhưng lá đơn Ba em gửi xã xác nhận đất của Nội thì bị thất lạc. Nhưng tờ đơn đăng ký ruộng đất của bà A thì người viết đơn, người ký xác nhận cùng một nét chữ, cùng một màu mực. Nên Ba em đang làm đơn xin xác nhận chữ viết và chữ ký của bà A trên đơn đăng ký ruộng đất kia.
Xin cho em hỏi việc ra quyết định thu hồi sổ đỏ của Ba em có đúng không?
Đơn đăng ký ruộng đất của bà A đúng luật không?
Nếu gia đình em khởi kiện ra tòa thì Nội em có lấy lại đất đã cho ở nhờ hay không? Em xin cảm ơn luật sư.?
Về nội dung bạn đang thắc mắc, Công ty luật Bảo Chính trả lời như sau:
Theo thông tin bạn trình bày, bà nội của bạn có cho bà A mượn đất. Bà A sử dụng đất một khoảng thời gian dài và năm 2006 Bà A xin xây nhà trên đất và hứa sẽ trả tiền đất, nhưng sau khi xây xong bà A không trả tiền mà còn thách thức gia đình bạn. Năm 2009 bố bạn có làm thủ tục và được Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất. Tuy nhiên năm 2015 bà A có làm đơn yêu cầu Ủy ban nhân dân Huyện thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp năm 2009 của gia đình bạn. Ủy ban nhân dân cấp Huyện ra quyết định thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp. Căn cứ theo những thông tin trên thì chưa đủ căn cứ để khẳng định rằng Quyết định thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp là sai.
Việc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp được quy định tại Khoản 2 Điều 106 Luật đất đai 2013 như sau:
Điều 106. Đính chính, thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp
2. Nhà nước thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp trong các trường hợp sau đây:
a) Nhà nước thu hồi toàn bộ diện tích đất trên Giấy chứng nhận đã cấp;
b) Cấp đổi Giấy chứng nhận đã cấp;
c) Người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất đăng ký biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất mà phải cấp mới Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất;
d) Giấy chứng nhận đã cấp không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng sử dụng đất, không đúng diện tích đất, không đủ điều kiện được cấp, không đúng mục đích sử dụng đất hoặc thời hạn sử dụng đất hoặc nguồn gốc sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai, trừ trường hợp người được cấp Giấy chứng nhận đó đã thực hiện chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật đất đai.
3. Việc thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp đối với trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 Điều này do cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất quy định tại Điều 105 của Luật này quyết định sau khi đã có kết luận của cơ quan thanh tra cùng cấp, văn bản có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về giải quyết tranh chấp đất đai.
Tại Khoản 4 Điều 87 Nghị định 43/2014/NĐ-CP có quy định về thủ tục thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp như sau:
Điều 87. Thủ tục thu hồi Giấy chứng nhận, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng đã cấp
4. Trường hợp thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định của pháp luật về đất đai tại Điểm d Khoản 2 Điều 106 của Luật Đất đai được thực hiện như sau:
a) Trường hợp cơ quan điều tra, cơ quan thanh tra có văn bản kết luận Giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định của pháp luật đất đai thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm xem xét, nếu kết luận đó là đúng thì quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp; trường hợp xem xét, xác định Giấy chứng nhận đã cấp là đúng quy định của pháp luật thì phải thông báo lại cho cơ quan điều tra, cơ quan thanh tra;
b) Trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất phát hiện Giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định của pháp luật đất đai thì thông báo bằng văn bản cho cơ quan thanh tra cùng cấp thẩm tra; nếu kết luận là Giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định của pháp luật thì thông báo cho người sử dụng đất biết rõ lý do; sau 30 ngày kể từ ngày gửi thông báo cho người sử dụng đất mà không có đơn khiếu nại thì ra quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp;
c) Trường hợp người sử dụng đất phát hiện Giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định của pháp luật đất đai thì gửi kiến nghị, phát hiện đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất có trách nhiệm xem xét, giải quyết theo quy định tại Điểm b Khoản này;
d) Văn phòng đăng ký đất đai thực hiện việc thu hồi và quản lý Giấy chứng nhận đã thu hồi theo quyết định thu hồi Giấy chứng nhận của cơ quan có thẩm quyền;
đ) Trường hợp người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất không đồng ý với việc giải quyết của cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại các Điểm a, b và c Khoản này thì có quyền khiếu nại theo quy định của pháp luật về khiếu nại.
Theo thông tin bạn trình bày Ủy ban nhân dân huyện ra quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp năm 2009 và bố của bạn đã làm đơn khiếu nại. căn cứ theo quy định tại Điều 106 Luật đất đai 2013 và Khoản 4 Điều 87 Nghị định 43/2014/NĐ-CP thì việc thi hồi Giấy chứng nhận đã cấp phải có kết luận bằng văn bản của cơ quan điều tra, cơ quan thanh tra về việc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp không đúng theo quy định của pháp luật. Không rõ Ủy ban nhân dân Huyện đã gửi thông báo thu hồi cho gia đình bạn như thế nào, không rõ Ủy ban nhân dân huyện đã có văn bản trả lời giải quyết khiếu nại của bố bạn hay chưa? Gia đình bạn có quyền khiếu nại để được giải quyết thỏa đáng.
Nếu bố có căn cứ cho rằng đơn đăng ký và xác nhận đơn đăng ký đất của bà A là của một người thì gia đình bạn có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xem xét gái trị pháp lý của Đơn đăng ký đất đai của bà A.
Do thông tin bạn cung cấp còn quá chung chung nên không đủ căn cứ để có thể khẳng định về việc gia đình bạn có đòi lại đất cho mượn trước đó hay không? Theo quy định tại Điều 203 Luật đất đai 2013 thì thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai như sau:
Điều 203. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai
Tranh chấp đất đai đã được hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã mà không thành thì được giải quyết như sau:
1. Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Tòa án nhân dân giải quyết;
2. Tranh chấp đất đai mà đương sự không có Giấy chứng nhận hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này thì đương sự chỉ được lựa chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định sau đây:
a) Nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều này;
b) Khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự;
3. Trường hợp đương sự lựa chọn giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền thì việc giải quyết tranh chấp đất đai được thực hiện như sau:
a) Trường hợp tranh chấp giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết; nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính;
b) Trường hợp tranh chấp mà một bên tranh chấp là tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết; nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính;
4. Người có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai tại khoản 3 Điều này phải ra quyết định giải quyết tranh chấp. Quyết định giải quyết tranh chấp có hiệu lực thi hành phải được các bên tranh chấp nghiêm chỉnh chấp hành. Trường hợp các bên không chấp hành sẽ bị cưỡng chế thi hành”
Nếu gia đình bạn có những căn cứ chứng minh rằng trước đó gia đình đã cho bà A mượn nhưng nay không trả lại thì gia đình bạn có thể căn cứ theo quy định tại Điều 203 Luật đất đai 2013 để xác định cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Theo đó, trước tiên gia đình bạn cần làm đơn yêu cầu Ủy ban nhân dân xã giải quyết. Sau khi giải quyết tại xã không được thì Gia đình bạn có quyền làm đơn khởi kiện và gửi đến Tòa án nhân dân để được giải quyết.
Trên đây là nội dung tư vấn của Công ty luật Bảo Chính về nội dung bạn đang thắc mắc. Nếu còn điều gì chưa rõ, bạn có thể tiếp tục thông tin cho chúng tôi để được giải đáp, hoặc nghe luật sư tư vấn, vui lòng gọi 19006281.
Gọi 1900 6281 để nghe luật sư tư vấn nhanh chóng, kịp thời, chính xác nhất các quy định của pháp luật hoặc đặt lịch tư vấn luật trực tiếp tại văn phòng Công ty luật Bảo Chính (P308, Tòa nhà số 8, Phố Láng Hạ, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội). Trường hợp quý khách có nhu cầu mời luật sư tham gia vụ án tranh chấp đất đai, thừa kế, hôn nhân gia đình, kinh tế, thương mại… xin vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi theo địa chỉ trên.