Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
24/04/2017 16:17
Năm 1976, gia đình tôi được chính quyền cấp phần đất 1500m2 do ông tôi là cán bộ hưu trí, vì đất đai bỏ hoang hóa nhiều, cấp bằng miệng, không có giấy tờ; gia đình tôi canh tác đến cuối năm 1995, bà nguyễn Thị A làm đơn đòi lại 732 m2 đất trong phần đất được cấp với lý gia đình tôi lấn chiếm giấy chứng minh cho đất của mình bà A đưa ra 01 tờ giấy đánh máy chữ với chiều ngang 15m, chiều dài hơn 50m, không có vị trí đất, không có tứ cận, người mua chỉ ghi vỏn vẹn là Nguyễn Thị A, không chữ ký, không dấu lăn tay, năm mua bán đát là 1974.
Qua nhiều lần hòa giải đến năm 1999 UBND huyện X, chấp nhận giấy tờ mua bán đất buộc gia đình tôi phải thao dỡ để trả lại đất cho bà A, không đồng ý, gia đình tôi khiếu nại lên UBND tỉnh, qua nhiều lần giải quyết đến năm 2002 UBND tỉnh ta quyết định giao cho tôi 5m ngang chạy dài cặp nhà tôi, còn 10m trả lại cho bà A. Gia đình tôi không đồng ý làm đơn kêu cứu đến các cơ quan Trung ương. Đến năm 2008, Chủ tịch UBND tỉnh lại ra quyết định thu hồi quyết định năm 2002 với lý do giải quyết lại vụ việc, tranh chấp. Đến khoảng tháng 6 năm 2012, UBND thị trấn X, huyện X lại mời tôi và gia đình bà A lên để tiếp tục giải quyết vụ việc.
Xin hỏi như vậy có đúng không? Thời hiệu để giải quyết vụ việc có còn không? Có phải khi quyết định năm 2002 bị thu hồi là gia đình tôi xem như không có tranh chấp có được không? (Vì mảnh đất này hiện nay gia đình tôi vẫn canh tác). Nếu năm 2012, hòa giải tại UBND thị trấn X không thành đến nay có đem ra giải quyết nữa được không? Bà A có quyền khiếu nại nữa không? Có được quyền khởi kiện ra Tòa án được hay không? Điều luật nào quy định?
Công ty Luật Bảo Chính, Đoàn Luật sư Hà Nội cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi thông tin xin tư vấn.
Theo quy định tại Điểm c Khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP quy định: Không áp dụng thời hiệu đối với các tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai là tranh chấp ai có quyền sử dụng đất đó. Do đó, tranh chấp về quyền sử dụng đất giữa gia đình bạn và bà A vẫn còn thời hiệu để giải quyết.
Việc Chủ tịch UBND tỉnh ra quyết định thu hồi quyết định năm 2002 gia đình bạn cũng không được coi là đất không có tranh chấp. Vì theo quy định tại Khoản 24 Điều 3 Luật đất đai 2013:
“ Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai”.
"Đất đang có tranh chấp" là loại đất mà giữa người sử dụng hợp pháp đất đó với cá nhân khác, với Nhà nước (vấn đề bồi thường đất) hoặc giữa những người sử dụng chung mảnh đất đó với nhau đang có tranh chấp về quyền sử dụng đất, về tài sản gắn liền với đất, về ranh giới, về mục đích sử dụng đất hoặc về quyền, nghĩa vụ phát sinh trong quá trình sử dụng đất..."Đất đang có tranh chấp" cũng có thể hiểu là đất tranh chấp giữa hai cá nhân chưa xác định được ai là người sử dụng đất hợp pháp.
Vì vậy, mảnh đất gia đình bạn đang sử dụng có tranh chấp với bà A về việc ai là người có quyền sử dụng đất hợp pháp nên dù Chủ tịch UBND tỉnh ra quyết định thu hồi quyết định năm 2002 thì mảnh đất mà gia đình bạn đang sử dụng được coi là đất có tranh chấp.
Nếu năm 2012, hòa giải tại UBND thị trấn X không thành đến nay vẫn được tiếp tục giải quyết theo quy định tại Điều 202, 203 Luật đất đai 2013.
Theo quy định tại Điều 203 Luật đất đai 2013 quy định:
“Tranh chấp đất đai đã được hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã mà không thành thì được giải quyết như sau:
1. Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Tòa án nhân dân giải quyết;
2. Tranh chấp đất đai mà đương sự không có Giấy chứng nhận hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này thì đương sự chỉ được lựa chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định sau đây:
a) Nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều này;
b) Khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự;
3. Trường hợp đương sự lựa chọn giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền thì việc giải quyết tranh chấp đất đai được thực hiện như sau:
a) Trường hợp tranh chấp giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết; nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính;”
Trong trường hợp 2 bên lựa chọn giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân huyện, nếu không đồng ý với cách giải quyết của UBND huyện thì Bà A có quyền khiếu nại lên UBND cấp tỉnh hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân.
Trên đây là nội dung tư vấn của công Luật Bảo Chính cho câu hỏi của bạn. Nếu còn thắc mắc tiếp tục gửi thông tin về cho chúng tôi hoặc gọi 19006821 để được tư vấn tiếp.
Trân trọng!
Gọi 1900 6281 để nghe luật sư tư vấn nhanh chóng, kịp thời, chính xác nhất các quy định của pháp luật hoặc đặt lịch tư vấn luật trực tiếp tại văn phòng Công ty luật Bảo Chính (P308, Tòa nhà số 8, Phố Láng Hạ, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội). Trường hợp quý khách có nhu cầu mời luật sư tham gia vụ án tranh chấp đất đai, thừa kế, hôn nhân gia đình, kinh tế, thương mại… xin vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi theo địa chỉ trên.