Phân chia di sản thừa kế đất đai khi chưa có sổ đỏ.
10/04/2017 14:06
Ông nội tôi trước khi mất có để lại hơn 2.000m2 đất. Khi đó, cha tôi sống tại khu đất ông nội để lại, nhưng thời điểm đó cha tôi không làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Khi cha tôi mất (năm 1962), tôi được 3 tuổi, mẹ tôi lấy chồng khác, đồng thời chuyển nơi khác sinh sống. Lúc đó, cô tôi về khu đất nêu trên sống và kê khai làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên cô . Năm 1991, cô Ba cho tôi về sống chung trên khu đất ông nội để lại, nhưng chưa làm giấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho tôi.
Khi cô Ba tôi mất (năm 2006), cô Ba không để lại di chúc, tôi vẫn tiếp tục sống trên khu đất đó cùng với con trai của cô Ba (anh Tâm), còn những người con khác của cô Ba thì sinh sống ở nơi khác.
Năm 2008, tôi cùng anh Tâm xây nhà cấp 4 kiên cố, chung 1 tấm vách. Đến năm 2013, anh Tâm âm thầm sang tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ cô Ba qua tên anh Tâm, tôi và các chị của anh Tâm đều không biết chuyện này. Đến năm 2015, anh Tâm khởi kiện, yêu cầu tôi cùng gia đình dọn nhà đến nơi khác sinh sống, trả lại đất cho anh Tâm.
Xin Luật sư cho tôi hỏi, việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho anh Tâm có phù hợp quy định không?
Khi ông nội tôi mất, thì cha tôi và cô Ba đều có quyền thừa kế đối với khu đất trên, đến khi cô Ba mất do không để lại di chúc, vậy tôi cùng các chị anh Tâm có quyền thừa kế khu đất trên không?
Tôi muốn yêu cầu UBND huyện xem xét lại việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên thì thủ tục như thế nào? Xin quý luật sư tư vấn giúp tôi, để tôi và gia đình có nơi sinh sống ổn định.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Căn cứ Mục 1 Phần II Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP hướng dẫn việc xác định quyền sử dụng đất là di sản như sau:
- Đối với đất do người chết để lại (không phân biệt có tài sản hay không có tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất) mà người đó đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003 thì quyền sử dụng đất đó là di sản.
- Đối với trường hợp đất do người chết để lại mà người đó có một trong các loại giấy quy định tại các Khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm, thì kể từ ngày 01/7/2004 quyền sử dụng đất đó cũng là di sản, không phụ thuộc vào thời điểm mở thừa kế.
- Trường hợp người chết để lại quyền sử dụng đất mà đất đó không có một trong các loại giấy tờ được hướng dẫn tại tiểu mục 1.1 và tiểu mục 1.2 mục 1 Phần II Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP nhưng có di sản là nhà ở, vật kiến trúc khác (như: nhà bếp, nhà tắm, nhà vệ sinh, giếng nước, nhà để ô tô, nhà thờ, tường xây làm hàng rào gắn với nhà ở, các công trình xây dựng trên đất được giao để sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh như nhà xưởng, kho tàng, hệ thống tưới, tiêu nước, chuồng trại chăn nuôi hay vật kiến trúc khác hoặc trên đất có các tài sản khác như cây lấy gỗ, cây lấy lá, cây ăn quả, cây công nghiệp hay các cây lâu năm khác) gắn liền với quyền sử dụng đất đó mà có yêu cầu chia di sản thừa kế, thì cần phân biệt các trường hợp sau:
+ Trong trường hợp đương sự có văn bản của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng chưa kịp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thì Toà án giải quyết yêu cầu chia di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất và quyền sử dụng đất đó.
+ Trong trường hợp đương sự không có văn bản của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng có văn bản của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền cho biết rõ là việc sử dụng đất đó không vi phạm quy hoạch và có thể được xem xét để giao quyền sử dụng đất, thì Toà án giải quyết yêu cầu chia di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất. Đồng thời phải xác định ranh giới, tạm giao quyền sử dụng đất đó cho đương sự để Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền tiến hành các thủ tục giao quyền sử dụng đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đương sự theo quy định của pháp luật về đất đai.
+ Trong trường hợp Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền có văn bản cho biết rõ việc sử dụng đất đó là không hợp pháp, di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất không được phép tồn tại trên đất đó, thì Toà án chỉ giải quyết tranh chấp về di sản là tài sản trên đất đó.
- Trường hợp người chết để lại quyền sử dụng đất mà đất đó không có một trong các loại giấy tờ quy định tại tiểu mục 1.1, tiểu mục 1.2 mục 1 Phần II Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP và cũng không có di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất được hướng dẫn tại tiểu mục 1.3 mục 1 này, nếu có tranh chấp thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Uỷ ban nhân dân theo quy định của pháp luật về đất đai.
Như vậy, bạn tham khảo các trường hợp trên để xác định tài sản của ông bạn có xác định là di sản hay không? Nếu xác định là di sản thì khi ông nội bạn mất, bố bạn và cô Ba còn sống. Như vậy phần đất do ông bạn để lại được chia cho cha bạn và cô Ba theo di chúc hoặc chia theo pháp luật. Nếu có di chúc để lại thì sẽ chia theo di chúc. Nếu không có di chúc thì sẽ chia thừa kế theo pháp luật theo quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 650 Bộ luật dân sự 2015 như sau:
"Điều 650. Những trường hợp thừa kế theo pháp luật
1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây:
a) Không có di chúc;"
Khi phân chia thừa kế theo pháp luật, chia đều cho những người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất theo quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 651 Bộ luật dân sự 2015 như sau:
"1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;"
Như vậy, cần xác minh rõ tại thời điểm cô Ba của bạn thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bố bạn đã mất thì có sự đồng ý của bạn hoặc của mẹ bạn là người giám hộ cho bạn hay không? Nếu tại thời điểm kê khai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cô Ba của bạn, không có sự đồng ý của bạn hoặc của người giám hộ là mẹ bạn thì việc cấp cho cô của bạn là không đúng theo quy định đất đai. Và hiện này anh Tâm là con của cô Ba bạn đã tự thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên anh Tâm, không thông qua sự đồng ý của bạn là không có căn cứ.
Nếu không chứng minh được quyền sử dụng đất này là di sản thừa kế thì bạn phải liên hệ tới Ủy ban nhân dân cấp xã nơi đang có đất, kiểm tra hồ sơ địa chính đất đai, kiểm tra các giấy tờ liên quan để xác minh rõ ai đang là người đứng tên trên quyền sử dụng đất.
Trên đây là nội dung tư vấn của Công ty luật Bảo Chính về nội dung bạn đang thắc mắc. Nếu còn điều gì chưa rõ, bạn có thể tiếp tục thông tin cho chúng tôi để được giải đáp, hoặc nghe luật sư tư vấn, vui lòng gọi 19006281.
Chúc bạn thành công!Gọi 1900 6281 để nghe luật sư tư vấn nhanh chóng, kịp thời, chính xác nhất các quy định của pháp luật hoặc đặt lịch tư vấn luật trực tiếp tại văn phòng Công ty luật Bảo Chính (P308, Tòa nhà số 8, Phố Láng Hạ, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội). Trường hợp quý khách có nhu cầu mời luật sư tham gia vụ án tranh chấp đất đai, thừa kế, hôn nhân gia đình, kinh tế, thương mại… xin vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi theo địa chỉ trên.