Hậu quả việc phân chia di sản thừa kế không đúng nội dung di chúc.
27/04/2017 14:16
Gia đình bác rể tôi có 6 anh chị em 3 gái, 3 trai có diện tích đất ở trước đây là 3 sào 2 thước và một phần diện tích đất ao trước năm 1978. Khi bố, mẹ của bác tôi mất có để lại di chúc có xác nhận của xã lúc bấy giờ, chia thừa kế đất cho 3 người con trai là 3 sào 2 thước (nhưng không nói đến diện tích đất ao kia vì vẫn là diện tích đăng ký với hợp tác xã về làm sản lượng khoán thời bao cấp) với nội dung như sau: Anh trai của bác tôi được hưởng 1 sào 2 thước là phần ở giữa, bác tôi được 1 sào ở phần phía đông, em trai bác tôi được 1 sào ở phần phía tây.
Năm 1991 nhà bác tôi có lấy lại được phần đất ao từ hợp tác xã (108m2 nhưng thực tế là hơn 108m2 và có kích thước 4 chiều) và họp chia lại đất cho 3 ông con trai có sự chứng kiến của 3 bà con gái còn lại có biên bản và chữ ký của 6 người (nhưng không có xác nhận của ủy ban xã), với diện tích tự đo là 3 sào 2 thước và 108m2 đất ao. Ông con trai cả được 491m2, ông con trai thứ 2 (bác tôi) được 278m2 và 108m2 đất ao kia, ông con trai út được 404m2 tất cả cả 3 thửa đều có kích thước các chiều rõ ràng phân định gianh giới và sử dụng bình thường cho đến nay.
Năm 1993 thì địa chính xã đã đo lại và xác định diện tích đất của từng ông để quản lý và đóng thuế sử dụng đất như sau: ông con trai cả là 480m2, ông con trai thứ 2 461m2, ông con út 384m2. Cả ba người đều xác nhận đồng ý diện tích đất này để đóng thuế và không có dị nghị nào và ký vào sổ địa chính xã được xã xác nhận diện tích từ đó đến nay không tranh chấp với các bên xung quanh khác và có kích thước các chiều rõ ràng sử dụng bình thường cho đến nay.
Nay bác rể tôi mất còn bác gái và 2 anh chị, ông con út yêu cầu chia lại đất theo đúng di chúc bố mẹ để lại phần thừa chia đều cho 3 ông và yêu cầu bác tôi phải trả phần đất dư ra. Tôi muốn hỏi:
Bác tôi có phải trả lại phần diện tích này không vì phần đất dư này lại nằm trên diện tích đất ao nay là vườn của bác tôi đang sử dụng. Rất mong nhận được sự giúp đỡ của Luật sư.
Xin chân thành cảm ơn!
Công ty Luật Bảo Chính, Đoàn Luật sư Hà Nội cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi thông tin xin tư vấn.
Thứ nhất, theo quy định tại Điều 99 Luật đất đai 2013 về trường hợp sử dụng đất được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất:
“1. Nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho những trường hợp sau đây:
a) Người đang sử dụng đất có đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định tại các điều 100, 101 và 102 của Luật này;
b) Người được Nhà nước giao đất, cho thuê đất từ sau ngày Luật này có hiệu lực thi hành;
c) Người được chuyển đổi, nhận chuyển nhượng, được thừa kế, nhận tặng cho quyền sử dụng đất, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất; người nhận quyền sử dụng đất khi xử lý hợp đồng thế chấp bằng quyền sử dụng đất để thu hồi nợ…”.
Đồng thời, Điều 100 Luật đất đai 2013 quy định về việc Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư đang sử dụng đất có giấy tờ về quyền sử dụng đất:
“1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:
a) Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong Sổ đăng ký ruộng đất, Sổ địa chính trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;
c) Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa, nhà tình thương gắn liền với đất;
d) Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993...”.
Trong trường hợp trên, Bạn nói rằng vào năm 1991 nhà bác bạn có lấy lại được phần đất ao từ hợp tác xã (108m2 nhưng thực tế là hơn 108m2 và có kích thước 4 chiều) và họp chia lại đất cho ba người con trai có sự chứng kiến của tất cả các con (6 người) và có biên bản và chữ ký của 6 người. Bên cạnh đó, vào năm 1993 thì địa chính xã đã đo lại và xác định diện tích đất của từng ông để quản lý và đóng thuế sử dụng đất. Cả ba người đều xác nhận đồng ý diện tích đất này để đóng thuế và không có dị nghị nào và ký vào sổ địa chính xã được Ủy ban xã xác nhận diện tích từ đó đến nay không tranh chấp với các bên xung quanh khác và ở trên đó cho đến hiện nay. Do đó, phần đất mà bác rể bạn ở từ năm 1993 đến giờ không có tranh chấp (mặc dù có dư ra hơn so với di chúc thừa kế trước đó) nhưng đã được xác nhận bởi Ủy ban nhân dân xã chứng nhận nên bác rể bạn đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định trên.
Thứ hai, Ðiều 645 Bộ luật dân sự quy định về thời hiệu khởi kiện về thừa kế như sau:
“Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”.
Như vậy, sau thời hạn 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế (thời điểm người để lại di sản chết), người thừa kế không còn quyền khởi kiện thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác; và sau thời hạn là 3 năm, cá nhân, tổ chức không còn quyền khởi kiện yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại.
Do đó, mặc dù bạn không nói rõ là ông bà bạn mất năm nào nhưng chúng ta có thể ước tính là 20 năm từ thời điểm thừa kế cho đến nay nên đã hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế. Đồng thời trường hợp bạn kể trên không thuộc trường hợp quy định tại Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP cho nên phần đất bác rể bạn ở cho hiện giờ là hợp pháp và người con út không có quyền đòi lại phần diện tích đất dư ra so với di chúc trước đó.
Trên đây là nội dung tư vấn của công Luật Bảo Chính cho câu hỏi của bạn.Nếu còn thắc mắc tiếp tục gửi thông tin về cho chúng tôi hoặc gọi 19006821 để được tư vấn tiếp.
Trân trọng!
Gọi 1900 6281 để nghe luật sư tư vấn nhanh chóng, kịp thời, chính xác nhất các quy định của pháp luật hoặc đặt lịch tư vấn luật trực tiếp tại văn phòng Công ty luật Bảo Chính (P308, Tòa nhà số 8, Phố Láng Hạ, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội). Trường hợp quý khách có nhu cầu mời luật sư tham gia vụ án tranh chấp đất đai, thừa kế, hôn nhân gia đình, kinh tế, thương mại… xin vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi theo địa chỉ trên.