Giải quyết tranh chấp, lấn chiếm đất đai đã sử dụng từ năm 1980.
10/05/2017 14:41
Vợ chồng tôi được thừa kế một mảnh đất khoảng hơn 300m2 do ông, bà để lại. ( Ông, bà tôi đã mất) Mảnh đất đó ông, bà chúng tôi sử dụng và quản lý từ trước năm 1980 cho đến nay. Phía Tây mảnh đất đó giáp với nhà ông Quách Đình Lý ( Ông Lý đã mất) và được ngăn cách bằng hàng rào cây hóp do gia đình ông Lý trồng từ trước năm 1980 cho đến nay.
Hiện tại gia đình tôi vẫn đang sử dụng và đang xây dựng chuồng trại để chăn nuôi trên mảnh đất đó. Ông Quách Ngọc Quang con trai ông Lý đã viết đơn khiếu nại lên xã cho rằng gia đình tôi lấn chiếm đất của gia đình ông vì ông căn cứ vào sơ đồ vẽ trong Giấy CNQSDĐ của gia đình ông được cấp năm 2000 có diện tích là 1685m2. Nhưng khi xã giải quyết về đo đạc lại đất theo hình vẽ sơ đồ trong giấy CNQSDĐ và đã đo vượt qua hàng rào ngăn cách vào cả phần đất gia đình tôi đã và đang sử dụng từ trước năm 1980 đến nay thì diện tích không đúng với diện tích trong Giấy CNQSDĐ của nhà ông Lý hiện tại, diện tích đất tăng lên trong đó có cả diện tích đất gia đình nhà tôi đang sử dụng.
Nhưng xã căn cứ vào thực trạng, theo bản đồ và GCNQSDĐ của Ông Lý và kết luận rằng gia đình tôi đã xây dựng chuồng trại thuộc phần đất nhà ông Lý.
Vậy xã giải quyết như vậy đúng chưa ?
Mong luật sư tư vấn cách giải quyết cho gia đình tôi. Xin chân thành cảm ơn!
Công ty Luật Bảo Chính, Đoàn Luật sư Hà Nội cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi thông tin xin tư vấn.
Về vấn đề của bạn thắc mắc Công ty Luật Bảo Chính tư vấn cho bạn như sau:
Thứ nhất, về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai, theo Điều 203 Luật đất đai năm 2013:
"Tranh chấp đất đai đã được hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã mà không thành thì được giải quyết như sau:
1. Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Tòa án nhân dân giải quyết;
2. Tranh chấp đất đai mà đương sự không có Giấy chứng nhận hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này thì đương sự chỉ được lựa chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định sau đây:
a) Nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều này;
b) Khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự;
3. Trường hợp đương sự lựa chọn giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền thì việc giải quyết tranh chấp đất đai được thực hiện như sau:
a) Trường hợp tranh chấp giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết; nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính;
b) Trường hợp tranh chấp mà một bên tranh chấp là tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết; nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính;
4. Người có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai tại khoản 3 Điều này phải ra quyết định giải quyết tranh chấp. Quyết định giải quyết tranh chấp có hiệu lực thi hành phải được các bên tranh chấp nghiêm chỉnh chấp hành. Trường hợp các bên không chấp hành sẽ bị cưỡng chế thi hành."
Như vậy, ủy ban nhân dân cấp xã chỉ có thẩm quyền tiến hành thủ tục hòa giải. Ủy ban nhân dân cấp xã không có quyền ra quyết định giải quyết tranh chấp đất đai. Do đó, quyết định giải quyết tranh chấp đất đai giữa anh, chị và ông Quang do ủy ban nhân dân cấp xã đưa ra không có giá trị pháp lý.
Thứ hai về việc giải quyết tranh chấp đất đai, các cơ quan có thẩm quyền cần phải căn cứ vào giấy tờ liên quan đến quyền sử dụng đất của cả hai bên trong các khoảng thời gian khác nhau, căn cứ vào các giấy tờ có liên quan đến quyền sử dụng đất do hai bên có tranh chấp cung cấp để giải quyết tranh chấp. Việc cơ quan nhà nước chỉ căn cứ vào Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất của ông Quang để giải quyết tranh chấp là không hợp lý. Để bảo vệ quyền lợi của mình, anh, chị cần phải cung cấp các giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất của mình đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp.
Trên đây là nội dung tư vấn của công Luật Bảo Chính cho câu hỏi của bạn. Nếu còn thắc mắc tiếp tục gửi thông tin về cho chúng tôi hoặc gọi 19006821 để được tư vấn tiếp.
Trân trọng!
Gọi 1900 6281 để nghe luật sư tư vấn nhanh chóng, kịp thời, chính xác nhất các quy định của pháp luật hoặc đặt lịch tư vấn luật trực tiếp tại văn phòng Công ty luật Bảo Chính (P308, Tòa nhà số 8, Phố Láng Hạ, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội). Trường hợp quý khách có nhu cầu mời luật sư tham gia vụ án tranh chấp đất đai, thừa kế, hôn nhân gia đình, kinh tế, thương mại… xin vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi theo địa chỉ trên.