Giải quyết tranh chấp đất đai từ năm 1974
05/05/2017 10:14
Năm 1974, A mua đất của C nhưng không ở mà để đất lại cho B (chú của A ở vì B có mảnh đất bên cạnh). Khi HTX đòi lấy lại đất, B có kêu A về giữ đất nhưng A không về. Đất được giao cho B sử dụng cho tới nay và B đứng quyền sử dụng trong sổ đỏ và đóng thuế từ 1974 - nay, nhưng nghĩ tình chú cháu, B có viết giấy khi nào A về, B sẽ cho lại mấy thước đất để xây nhà, giấy được viết từ 1974, không có chữ kí 2 bên, không có xác nhận của chính quyền địa phương.
Vậy A đòi lại đất căn cứ theo giấy viết tay có hợp lệ không?
Xin cảm ơn luật sư!
Công ty Luật Bảo Chính, Đoàn Luật sư Hà Nội cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi thông tin xin tư vấn.
Về vấn đề của bạn thắc mắc Công ty Luật Bảo Chính tư vấn cho bạn như sau:
Theo quy định tại khoản 16 Điều 3 Luật đất đai năm 2013 thì Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất.
Điều 167 Luật đất đai năm 2013 về quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất cũng khẳng định: người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai; hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất phải được công chứng hoặc chứng thực, trừ trường hợp kinh doanh bất động sản quy định.
Khoản 5 Điều 87 Nghị định 43/2014/NĐ-CP quy định về việc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở như sau:
"Nhà nước không thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp trái pháp luật trong các trường hợp quy định tại Điểm d Khoản 2 Điều 106 của Luật Đất đai nếu người được cấp Giấy chứng nhận đã thực hiện thủ tục chuyển đổi, chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất hoặc chuyển mục đích sử dụng đất và đã được giải quyết theo quy định của pháp luật.
Việc xử lý thiệt hại do việc cấp Giấy chứng nhận pháp luật gây ra thực hiện theo quyết định hoặc bản án của Tòa án nhân dân. Người có hành vi vi phạm dẫn đến việc cấp Giấy chứng nhận trái pháp luật bị xử lý theo quy định tại Điều 206 và Điều 207 của Luật Đất đai."
Đối chiếu với các quy định trên, đất đã được giao cho B sử dụng ổn định từ năm 1974 đến nay và đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì mảnh đất đó thuộc quyền sử dụng của B, được nhà nước thừa nhận. A và B có viết giấy về chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhưng giấy viết tay này không có chữ kí của hai bên, không có sự xác nhận của chính quyền địa phương nên giấy viết tay này không có căn cứ pháp lý trong việc giải quyết tranh chấp đất đai. A sẽ không thể căn cứ vào mảnh giấy đó để đòi lại đất mà chỉ có thể thương lượng với B để nhận chuyển nhượng một phần quyền sử dụng đất.
Trên đây là nội dung tư vấn của công Luật Bảo Chính cho câu hỏi của bạn. Nếu còn thắc mắc tiếp tục gửi thông tin về cho chúng tôi hoặc gọi 19006821 để được tư vấn tiếp.
Trân trọng!
Gọi 1900 6281 để nghe luật sư tư vấn nhanh chóng, kịp thời, chính xác nhất các quy định của pháp luật hoặc đặt lịch tư vấn luật trực tiếp tại văn phòng Công ty luật Bảo Chính (P308, Tòa nhà số 8, Phố Láng Hạ, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội). Trường hợp quý khách có nhu cầu mời luật sư tham gia vụ án tranh chấp đất đai, thừa kế, hôn nhân gia đình, kinh tế, thương mại… xin vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi theo địa chỉ trên.