Có được cấp giấy chứng nhận sử dụng đất khi có giấy tờ chuyển nhượng viết tay từ năm 1972
01/04/2017 21:11
Thưa luật sư cho tôi hỏi: Năm 1993, H làm đơn đòi lại một phần đất bà Dung (D) là Dì tôi đang sử dụng, với lý do là năm 1972, ông An (A) (bố đẻ D) khi còn sống đã viết giấy cho H 1.200 m2. Tuy nhiên trên tờ cho đất chỉ có chữ ký của A và không có xác nhận của chính quyền.
Năm 1994, , Chủ tịch UBND phường , ra quyết định buộc gia đình D phải trả lại phần đất này cho H. Tranh chấp này vẫn tiếp tục kéo dài, đến năm 2011, Chủ tịch UBND tỉnh ra quyết định buộc bà D trả lại phần đất 1.200 m2 đang tranh chấp cho ông H. Năm 2012, UBND đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) đối với diện tích đất này cho ông H và tiến hành cưỡng chế giao 1.200 m2 đất bà D đang sử dụng cho ông H. Năm 2015, ông H đã chuyển nhượng quyền sử dụng phần đất này cho người khác. Trước đó, ngày 19/05/1997, Công an tỉnh đã kết luận chữ ký trong giấy tờ nhượng đất năm 1972 mà ông H xuất trình không phải do ông A ký. (Căn cứ việc giám định chữ ký). Hiện người đang sử dụng phần đất tranh chấp là ông T (nhận chuyển nhượng lại quyền sử dụng đất của ông H) đã có GCNQSDĐ. Gia đình dì tôi là D trong 20 năm qua không có chỗ ở phải đi ở thuê. Xin hỏi luật sư việc làm của cấp chính quyền có đúng hay không ? Dì tôi có thể khởi kiện được hay không ? Và giải quyết như thế nào theo đúng pháp luật ?
Xin cảm ơn.
Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Công ty luật Bảo Chính. Về nội dung bạn hỏi chúng tôi trả lời như sau:
Căn cứ quy định tại Điều 100, Luật Đất đai quy định như sau:
"Điều 100. Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư đang sử dụng đất có giấy tờ về quyền sử dụng đất
1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:
a) Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong Sổ đăng ký ruộng đất, Sổ địa chính trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;
c) Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa, nhà tình thương gắn liền với đất;
d) Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;
đ) Giấy tờ thanh lý, hóa giá nhà ở gắn liền với đất ở; giấy tờ mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước theo quy định của pháp luật;
e) Giấy tờ về quyền sử dụng đất do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất;
g) Các loại giấy tờ khác được xác lập trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 theo quy định của Chính phủ.
2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan, nhưng đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật và đất đó không có tranh chấp thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và không phải nộp tiền sử dụng đất. [....]".
Căn cứ theo những dữ liệu bạn đưa ra gồm: ông A ký giấy chuyển nhượng 1200m2 đất cho ông H, nhưng trong giấy tờ chuyển nhượng không có xác nhận của chính quyền địa phương đồng thời áp dụng theo quy định của khoản 1, điều 100 thì Ông A chuyển nhượng đất cho ông H nhưng trong giấy tờ chuyển nhượng không có xác nhận của chinh quyền địa phương nên không thuộc trường hợp điểm d, khoản 1, điều 100 Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993.
Do đó, trường hợp này người sỏ hữu hợp pháp mảnh đất này là bà D vì giấy tờ chuyển nhượng của ông A cho H không hợp lệ.
Từ đây, có thể khẳng định việc quyết định giao đất, cưỡng chế giao đất đồng thời cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông H mảnh đất 1200m2 này là trái với quy định của pháp luật.
Để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của gia đình mình thì Dì của bạn có thể làm đơn khởi kiện ông H ra Tòa án nhân dân cấp quận, huyện nơi có mảnh đất 1200m2 đó. Cùng với các bằng chứng là giấy tờ chuyển nhượng không có xác nhận của chính quyền địa phương và bản kết luận ngày 19/05/1997, Công an tỉnh đã kết luận chữ ký trong giấy tờ nhượng đất năm 1972 mà ông H xuất trình không phải do ông A ký.
Trên đây là nội dung trả lời của Công ty Luật Bảo Chính cho câu hỏi của bạn, nếu còn vướng mắc bạn có thể gọi 19006281 để được tư vấn trực tiếp.
Trân trọng!
Gọi 19006281 để nghe luật sư tư vấn nhanh chóng, kịp thời, chính xác nhất các quy định của pháp luật hoặc đặt lịch tư vấn trực tiếp tại văn phòng Công ty luật Bảo Chính (P308, Tòa nhà số 8, phố Láng Hạ, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội). Trường hợp quý khách có nhu cầu mời luật sư tham gia các vụ án tranh chấp đất đai, thừa kế, hôn nhân gia đình, thương mại, kinh tế… vui lòng liên hệ với chúng tôi theo địa chỉ trên.